Ngôn ngữ: 

(+84) 911 807 668 - (+84) 911 807 667

Search
Close this search box.

GO-GLOBAL – CÂU CHUYỆN KHÔNG THỂ MỘT MÌNH DOANH NGHIỆP TỰ LỰC

CT GROUP

NGOẠI GIAO CÔNG NGHỆ:
SỨC MẠNH MỀM CỦA VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN SỐ

Từ một đất nước chưa có tên trên bản đồ thế giới, sau 80 năm, Việt Nam đã trở thành 1 trong 34 nền kinh tế lớn nhất thế giới và được biết đến như một trong những trung tâm công nghệ tiềm năng hàng đầu tại Đông Nam Á. Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, hội nhập quốc tế được xem là “quyết sách đột phá”, là động lực quan trọng góp phần đưa đất nước sánh vai các cường quốc năm châu.
Hội nhập quốc tế chuyển từ tiếp nhận sang đóng góp, từ hội nhập sâu rộng sang hội nhập đầy đủ, từ vị thế một quốc gia đi sau sang trạng thái một quốc gia vươn lên, tiên phong vào những lĩnh vực mới, khẳng định vị thế, năng lực trong chuỗi giá trị toàn cầu. Trong bối cảnh đó, ngoại giao công nghệ được xem là “sức mạnh mềm” của Việt Nam trong kỷ nguyên số.

Toàn cầu hóa (Go Global) là xu hướng tất yếu, nhưng để doanh nghiệp Việt vươn ra thế giới không thể chỉ dựa vào nội lực. Với những nghị quyết mang tính đột phá về đổi mới công nghệ, với sự góp sức của các ban, bộ, ngành và  đại sứ quán các nước, trên hành trình thực hiện sứ mệnh ngoại giao công nghệ, các doanh nghiệp Việt Nam đang có được “bệ đỡ” vững chắc. Tuy nhiên, để thực hiện chiến lược hợp tác quốc tế về công nghệ, chúng ta còn nhiều việc cần phải làm.

“Các doanh nghiệp Việt Nam đang có được “bệ đỡ” vững chắc, tuy nhiên để thực hiện chiến lược hợp tác quốc tế về công nghệ, chúng ta còn nhiều việc cần phải làm.”

Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đặt mục tiêu giai đoạn 2025–2035, tầm nhìn đến năm 2045, đưa Việt Nam trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo của khu vực, đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao và hình thành hệ sinh thái số hiện đại. Để hiện thực hóa mục tiêu này, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa trong nước và quốc tế.

Thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW, các đại sứ quán không chỉ “đi trước mở đường” mà còn có trách nhiệm thực sự “đồng hành” cùng doanh nghiệp trong từng bước phát triển, gắn lợi ích của doanh nghiệp với hiệu quả quan hệ song phương và uy tín quốc gia.

Theo Đại sứ Trần Thị Thu Thìn, với tinh thần quán triệt Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong phát triển kinh tế, Đại sứ quán Việt Nam tại Mozambique xác định, việc xây dựng và củng cố sự tin tưởng và tình cảm hữu nghị giữa hai nước trên tất cả các kênh là nhiệm vụ trọng tâm, coi đây là “tài sản chiến lược” của ngoại giao.

“Thực hiện Nghị quyết 57-NƯ/TW, các đại sứ quán không chỉ “đi trước mở đường” mà còn có trách nhiệm thực sự “đồng hành” cùng doanh nghiệp trong từng bước phát triển, gắn lợi ích của doanh nghiệp với hiệu quả quan hệ song phương và uy tín quốc gia.”

Đại sứ Trần Thị Thu Thìn khuyến cáo, Việt Nam cần xác định việc doanh nghiệp đầu tư tại các địa bàn xa xôi, còn nhiều khó khăn như tại các nước châu Phi đồng nghĩa với khả năng rủi ro lớn và cam kết lâu dài. Do đó, Chính phủ và các bộ, ban ngành cần xây dựng cơ chế hỗ trợ chiến lược, dài hơi.

“Ngoài việc hoàn thiện quy trình phê duyệt và cấp phép, cần nghiên cứu áp dụng các công cụ bảo hiểm rủi ro, ưu đãi tín dụng đồng thời tích cực đàm phán, ký kết các hiệp định bảo hộ đầu tư và tránh đánh thuế hai lần với các nước châu Phi. Đây là những biện pháp thiết thực nhằm bảo vệ quyền lợi và khuyến khích doanh nghiệp yên tâm đầu tư dài hạn”, Đại sứ Trần Thị Thu Thìn chia sẻ.

Đưa sản phẩm công nghệ cao Việt Nam vào thị trường Mỹ là một mục tiêu chiến lược mà Nghị quyết 57-NQ/TW đặt ra. Tuy nhiên, đây là thị trường có tiêu chuẩn kỹ thuật nghiêm ngặt và yêu cầu chất lượng cao. Ông Hoàng Anh Tuấn, Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại San Francisco cho hay, Lãnh sự đã và đang hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách tổ chức chương trình giới thiệu sản phẩm, hội chợ chuyên ngành và kết nối trực tiếp với các chuỗi phân phối, nhà cung ứng lớn. Các sản phẩm nổi bật bao gồm phần mềm, giải pháp AI, thiết bị IoT và chip bán dẫn.

Nhờ sự hỗ trợ này, một số doanh nghiệp Việt đã thành công bước đầu trong việc ký kết hợp đồng hợp tác và hiện diện tại thị trường Mỹ. Điều đó không chỉ mở rộng thị trường cho sản phẩm công nghệ cao của Việt Nam mà còn góp phần nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu “xuất khẩu trí tuệ” của Nghị quyết 57-NQ/TW.

Trong bối cảnh cạnh tranh công nghệ toàn cầu gay gắt, Nghị quyết 57-NQ/TW là kim chỉ nam để Việt Nam phát triển kinh tế số và công nghệ cao. Lãnh sự Việt Nam tại San Francisco, Mỹ cho biết, với vai trò trung tâm ngoại giao công nghệ của Việt Nam tại Mỹ, Cơ quan Lãnh sự đã khẳng định vị thế là “cầu nối thông minh” giữa Việt Nam và hệ sinh thái đổi mới toàn cầu.

Nhờ vị trí chiến lược tại trung tâm đổi mới sáng tạo toàn cầu – nơi hội tụ các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới, Tổng Lãnh sự Hoàng Anh Tuấn chia sẻ, để phát triển kinh tế số, Việt Nam cần nắm vững tiêu chuẩn công nghệ, bảo hộ sở hữu trí tuệ và xây dựng thương hiệu quốc tế.

“Tổng Lãnh sự quán luôn đồng hành cùng doanh nghiệp Việt trong quá trình đàm phán, cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ giải quyết vướng mắc pháp lý và thương mại, góp phần giảm thiểu rủi ro và nâng cao khả năng cạnh tranh”, Tổng Lãnh sự khẳng định.

Theo đó, từ việc xúc tiến hợp tác, kết nối doanh nghiệp, hỗ trợ xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao, đến huy động trí thức kiều bào và định vị thương hiệu quốc gia, Tổng Lãnh sự quán không chỉ thực hiện nhiệm vụ ngoại giao truyền thống mà còn trở thành tác nhân thúc đẩy chuyển đổi số của đất nước.

Ông Hoàng Anh Tuấn khẳng định, Nghị quyết 57-NQ/TW xác định rõ nhiệm vụ định vị thương hiệu Việt Nam như một quốc gia công nghệ đổi mới. Những năm qua, thông qua việc tham gia và hỗ trợ các sự kiện công nghệ toàn cầu về AI, kinh tế số, và chuyển đổi số, Tổng Lãnh sự quán đã góp phần khẳng định tầm nhìn công nghệ của Việt Nam, tạo dựng niềm tin với các tập đoàn công nghệ quốc tế.

“Việc truyền thông thông điệp “Vietnam – A Rising Tech Nation” trên các nền tảng mạng xã hội, trong các hội nghị công nghệ lớn tại Mỹ đã giúp Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn trong bản đồ đầu tư công nghệ toàn cầu. Đây chính là giá trị gia tăng bền vững mà ngoại giao công nghệ mang lại”, ông Hoàng Anh Tuấn chia sẻ.

Ông cũng khẳng định, với tầm nhìn chiến lược và phương thức linh hoạt, Lãnh sự quán sẽ tiếp tục đồng hành cùng Việt Nam trong hành trình hiện thực hóa mục tiêu trở thành trung tâm công nghệ và đổi mới sáng tạo của khu vực vào năm 2045.

Tại thị trường khó tính nhất như Nhật Bản, ông Phạm Quang Hiệu, Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản nhận định, “quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và thịnh vượng ở châu Á giữa Việt Nam và Nhật Bản đã được triển khai toàn diện và thực chất trên tất cả mọi lĩnh vực, đặc biệt trong đó có bước tiến triển tạo dấu mốc quan trọng trong quan hệ hợp tác khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số giữa hai nước.

Ngoại giao công nghệ trong giai đoạn hiện hay và những năm tới sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong quan hệ hai nước, khi hai Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính và Thủ tướng Nhật Bản nhất trí đưa hợp tác khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo sẽ trở thành trụ cột mới của quan hệ song phương nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam vào tháng 4/2025. Với một quốc gia có nền khoa học và công nghệ phát triển hàng đầu trên thế giới và một quốc gia đang có nhu cầu đổi mới công nghệ, tiếp nhận các công nghệ hiện đại của thế giới, ngoại giao công nghệ do đó sẽ là cầu nối gắn kết nhu cầu phát triển của cả hai nước, hỗ trợ và bổ trợ cho nhau trong nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ”.

“Vai trò của Chính phủ là quan trọng nhưng doanh nghiệp cũng phải nỗ lực tham gia, phải đóng góp gấp đôi. Để ngoại giao công nghệ đi vào chiều sâu, yếu tố ngoại giao nhân dân vẫn rất quan trọng.”

Với CT Group, định hướng phát triển hệ sinh thái các công nghệ chiến lược của tập đoàn được xác định rõ với 9 ngành công nghệ cao như: Bán dẫn, máy bay không người lái (UAV), trí tuệ nhân tạo, lượng tử, gene và tế bào, ô-tô điện-tàu điện, năng lượng mới, ESG tiền số xanh và 3 ngành truyền thống: đô thị thông minh; phát triển hạ tầng giao thông, kỹ thuật, kinh tế, xã hội và logistics xanh; thực phẩm sạch, chăm sóc sức khỏe.

Ông Trần Kim Chung, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn CT Group, Lãnh sự Danh dự Bồ Đào Nha, Phó Chủ tịch Hiệp hội Hữu nghị Việt Nam-Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh, Thành viên Hội đồng khoa học Đại học Kinh tế Hồ Chí Minh cho biết, hiện CT Group đang tập trung mọi nguồn lực để chuẩn bị thật tốt cho việc sản xuất đơn hàng 5.000 máy bay cho Hàn Quốc. Trong tháng 9, CT Group cùng với đối tác Airbility sẽ thử một mẫu máy bay mới. Bên cạnh đó, doanh nghiệp này cũng đang ráo riết chuẩn bị cho thị trường Indonesia, Phillipines và xa hơn là Hoa Kỳ, Canada.

CÁC NGÀNH CỦA CT UAV

Ngoài xuất khẩu UAV thì CT Group có khá nhiều sản phẩm xuất khẩu khác trong lĩnh vực công nghệ cao. CT Group không chỉ xuất khẩu máy bay mà còn đang xuất khẩu các công nghệ rất hiện đại khác với quy mô rất lớn như LAE (Low Altitude Economy), NDT15 (National Digital Twin 15), CTI (CT Innovation 4.0) và công nghệ sinh học tái tạo. Ngoài ra, doanh nghiệp đang sắp hoàn thành nghiên cứu để triển khai xuất khẩu nhà robot xanh, không phát thải.

Từ thực tiễn “go global” của doanh nghiệp, đưa ra một số đề xuất với Chính phủ trong việc hỗ trợ doanh nghiệp phát triển công nghệ chiến lược, ông Trần Kim Chung cho biết, trong bối cảnh công nghệ đang tiến nhanh như vũ bão trên thế giới, việc “biến thể chế thành lợi thế” là chủ trương rất hay của Nghị quyết 57-NQ/TW mà mọi người cần hiểu và vận dụng cho tốt. Đây chính là “bí kíp” mà chúng ta có thể tiến nhanh hơn các nước khác.

“Trong bối cảnh công nghệ đang tiến nhanh như vũ bão trên thế giới, việc “biến thể chế thành lợi thế” là chủ trương rất hay của Nghị quyết 57-NQ/TW mà mọi người cần hiểu và vận dụng cho tốt.”

Riêng về ngành UAV thì trước đây, các cơ quan ban ngành chưa có công cụ kỹ thuật để quản lý UAV nên phải chủ yêu quản lý bằng văn bản hành chính. CT Group đề xuất phối hợp Bộ Quốc phòng và Bộ Công an thành lập tổ liên ngành để rà soát, tháo gỡ các quy định cũ, nhằm khai thác tiềm năng kinh tế không gian tầm thấp, chính là một ngành kinh tế có quy mô dự kiến hàng trăm tỷ USD như mô hình Trung Quốc, đang phát triển cực lớn. “Chúng tôi đề xuất áp dụng SIM định danh cho UAV để quản lý bay bằng công nghệ thay vì thủ tục hành chính, đồng thời tạo nguồn thu từ đăng kiểm định kỳ”, ông Chung bày tỏ.

Chủ tịch CT Group cũng mong Chính phủ sớm triển khai nền tảng Công nghệ NDT15 (Bản sao số quốc gia 15 lớp), đây chính là cây đũa thần kỳ để tăng tốc phát triển quốc gia và vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Nền tảng NDT15 có thể đem lại hơn 250 hiệu quả vượt trội cho mọi lĩnh vực, từ mô hình quy hoạch với đầy đủ dữ liệu và AI đến quản lý thành phố số, chính quyền số hay nền nông nghiệp thông minh.

Về nguồn tài chính, ông Kim Chung cho hay, đến nay, CT Group vẫn chưa được bất cứ hỗ trợ nào về nguồn vốn hay đất đai làm công nghệ. Vì thế, ông cho rằng, điều đơn giản nhất có thể làm ngay là hình thành mô hình bảo lãnh tỷ lệ 50/50 cho các công nghệ lõi đã được chọn cho một số doanh nghiệp điển hình.

Cũng như nhiều các doanh nghiệp công nghệ thông tin khác, Chủ tịch CT Group đề xuất cần có những chương trình quốc gia để xây dựng thương hiệu quốc gia, nhất là trong các ngành khoa học-công nghệ mà Việt Nam vẫn còn được xem là một quốc gia mới nổi.

“Làm sản phẩm công nghệ vốn đã khó, bán sản phẩm nông nghiệp còn khó hơn, nhưng với chip lại càng thách thức. Nhiều người chưa từng nghĩ Việt Nam có thể làm được chip, nhưng chúng tôi đã làm được và đã bắt đầu bán ra thị trường. Vì vậy, điều cần thiết trước hết là phải xây dựng thương hiệu quốc gia cho các sản phẩm công nghệ. Chúng tôi rất mong sớm có những chính sách nhằm nâng cao năng lực quốc gia trong việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm công nghệ và trong việc đưa sản phẩm công nghệ cao ra thị trường quốc tế. Bởi khi Việt Nam bước vào kỷ nguyên sản xuất công nghệ cao, nếu không chuẩn bị tốt hệ thống tiêu thụ toàn cầu, việc sản xuất nhiều sản phẩm công nghệ mà không xuất khẩu hiệu quả sẽ trở thành một thách thức lớn”, ông Kim Chung giãi bày.

“Nhiều người chưa từng nghĩ Việt Nam có thể làm được chip, nhưng chúng tôi đã làm được và đã bắt đầu bán ra thị trường.” – Ông Trần Kim Chung – Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn CT Group

CT Group cũng bày tỏ mong muốn có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Công thương, Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan nhằm xây dựng năng lực cạnh tranh quốc gia, hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ vươn ra thị trường quốc tế. Đây là một định hướng dài hạn, góp phần thực hiện hiệu quả Nghị quyết 57-NQ/TW, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có vị thế cao trong chuỗi giá trị công nghệ toàn cầu.

Theo bà Nguyễn Minh Hằng, Thứ trưởng Ngoại giao, công tác ngoại giao kinh tế đã đạt những bước tiến quan trọng, mang tính đột phá. Thành quả này là sự kết tinh của những yếu tố nền tảng, mang tầm vóc chiến lược. Đó là sự đổi mới tư duy sâu sắc, chỉ đạo quyết liệt của Đảng. Lần đầu tiên ngoại giao kinh tế được đưa thành một chủ trương trong văn kiện Đại hội Đảng. Ngoại giao kinh tế thực sự trở thành nội hàm then chốt trong tất cả các hoạt động đối ngoại, đặc biệt đối ngoại cấp cao. Trong nội hàm nâng cấp, nâng tầm quan hệ với các đối tác, kinh tế là ưu tiên hàng đầu và đạt những kết quả rất cụ thể, thiết thực, tạo ra thời cơ mới cho phát triển đất nước.

Bà Hằng cũng nhấn mạnh, nội hàm của ngoại giao kinh tế cũng sẽ không chỉ là xúc tiến thương mại, đầu tư, mà còn mở rộng sang các nội hàm mới, chuyên biệt hơn như ngoại giao khoa học công nghệ, ngoại giao xanh… Chúng ta có thể thấy vừa qua, trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Hàn Quốc của Tổng Bí thư Tô Lâm, chúng ta đã có sự chuyển biến chiến lược từ hợp tác kinh tế sang liên kết kinh tế, qua đó mở ra những cơ hội mới trong tạo dựng, thu hút các nguồn lực.

“Nội hàm của ngoại giao kinh tế cũng sẽ không chỉ là xúc tiến thương mại, đầu tư, mà còn mở rộng sang các nội hàm mới, chuyên biệt hơn như ngoại giao khoa học công nghệ, ngoại giao xanh… – Bà Nguyễn Minh Hằng, Thứ trưởng Ngoại giao

Hợp tác quốc tế về khoa học-công nghệ ngày càng được mở rộng trên nhiều lĩnh vực, gồm: khoa học tự nhiên (nâng cao trình độ khoa học, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững), khoa học xã hội-nhân văn (cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước), khoa học-công nghệ (nâng cao chất lượng tăng trưởng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh, phục vụ mục đích công cộng).

Nếu như trước đây, các hoạt động hợp tác nghiên cứu dựa trên những lĩnh vực thế mạnh truyền thống của từng nước thì nay trong bối cảnh hợp tác, cạnh tranh phát triển khoa học, công nghệ trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội cao.

Hiện nay, thế giới có khoảng 10 quốc gia có năng lực nổi bật, với thế mạnh, vai trò dẫn dắt trong các lĩnh vực khác nhau: Hoa Kỳ (trí tuệ nhân tạo, công nghệ vũ trụ, sinh học, đám mây/lượng tử, an ninh mạng, bán dẫn); Trung Quốc (trí tuệ nhân tạo, 5G/6G, pin năng lượng sạch, đất hiếm, vũ trụ, bán dẫn); Nhật Bản (5G/6G, robot, vật liệu tiên tiến, thiết bị và hóa chất sản xuất bán dẫn, vũ trụ); Hàn Quốc (5G/6G, chip nhớ bán dẫn, robot, pin năng lượng, trí tuệ nhân tạo); Đức (robot/tự động hóa, vật liệu và pin, hạ tầng đám mây, hàng không – vũ trụ); Anh (trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng, công nghệ sinh học); Pháp (hàng không – vũ trụ, hạt nhân, an ninh); Singapore (trí tuệ nhân tạo ứng dụng, trung tâm dữ liệu, đám mây, an ninh mạng, công nghệ tài chính); Israel (trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng, y sinh); Canada (lượng tử, trí tuệ nhân tạo học sâu, vật liệu, công nghệ sinh học).

Ngày 12/6/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Quyết định số 1131/QĐ-TTg ban hành danh mục công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược. Theo Quyết định số 1131/QĐ-TTg, Việt Nam có 11 nhóm công nghệ chiến lược và 35 nhóm sản phẩm công nghệ chiến lược. Việt Nam sẽ cần tập trung phát triển theo chiều sâu để tránh phân tán các nguồn lực, bám sát 11 nhóm công nghệ và 35 nhóm sản phẩm công nghệ chiến lược.

Bộ Khoa học và Công nghệ hiện đang phối hợp với Bộ Ngoại giao xác định rõ danh sách một số quốc gia có thế mạnh đi đầu đối với các lĩnh vực công nghệ này.

Theo ông Hoàng Hữu Hạnh, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế – Bộ Khoa học và Công nghệ, trong 11 nhóm công nghệ chiến lược, Bộ đặt ra hai mũi nhọn. Mũi nhọn thứ nhất là các công nghệ nền tảng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và kinh tế số, bao gồm trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây, dữ liệu lớn, mạng di động thế hệ sau (5G/6G), và an ninh mạng. Mũi nhọn thứ hai mà Bộ đang tập trung nghiên cứu là các lĩnh vực mà Việt Nam có tiềm năng, lợi thế cạnh tranh hoặc có ý nghĩa an ninh-kinh tế sống còn, như công nghệ chip bán dẫn, công nghệ y-sinh học tiên tiến, công nghệ năng lượng và vật liệu mới, cùng với công nghệ khai thác các tài nguyên chiến lược như đất hiếm và đại dương.

Theo ông Hoàng Hữu Hạnh, để thực hiện hiệu quả công tác ngoại giao công nghệ trong thời gian tới, Việt Nam cần xây dựng các tiêu chí đánh giá, lựa chọn nhân sự cụ thể và kế hoạch đào tạo, tập huấn rõ ràng để xây dựng đội ngũ nguồn lực nhân sự ngoại giao công nghệ chuyên nghiệp, có tính liên ngành, có năng lực và hiểu biết kỹ công nghệ và nắm rõ chiến lược phát triển công nghệ của quốc gia, khả năng thương thuyết và đàm phán. 

Vì thế, về nhân sự cốt lõi, đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, cần phải nâng cao năng lực cán bộ hiểu biết về công nghệ chiến lược (trí tuệ nhân tạo, bán dẫn….), có kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu và triển khai xúc tiến R&D, thu hút trung tâm công nghệ; chuyên gia về xây dựng chính sách và pháp chế am hiểu luật sở hữu trí tuệ, kiểm soát xuất khẩu-nhập khẩu, thẩm định và giám định công nghệ; có kinh nghiệm kết nối hợp tác giữa viện/trường và đối tác nước ngoài để triển khai dự án nghiên cứu chung; có kinh nghiệm quản lý dự án hợp tác công nghệ hoặc nghiên cứu chung với nước ngoài.

Để có nguồn nhân lực chất lượng cao, cần kết hợp tuyển từ ngoại giao truyền thống và tuyển đặc thù từ các đơn vị của Bộ Khoa học và Công nghệ, các trường đại học/viện nghiên cứu; đào tạo cấp tốc về kỹ thuật cơ bản, sở hữu trí tuệ, thương thảo quốc tế, thẩm định, giám định công nghệ, an ninh công nghệ.

Và để thu hút nhân tài khoa học, công nghệ, cần có chính sách khuyến khích bao gồm mức đãi ngộ cạnh tranh, phụ cấp công tác nước ngoài.

Bộ Khoa học và Công nghệ hiện đang có 23 Văn phòng đại diện Khoa học và Công nghệ của Bộ tại 19 quốc gia, Văn phòng đại diện Khoa học và Công nghệ chính là cánh tay nối dài của Bộ Khoa học và Công nghệ, là cầu nối chiến lược giữa hệ thống nghiên cứu, đổi mới của Việt Nam và hệ sinh thái công nghệ toàn cầu.

Các Văn phòng đại diện Khoa học và Công nghệ vừa làm nhiệm vụ ngoại giao kỹ thuật, vừa khảo sát và thăm dò thị trường, tìm kiếm và hỗ trợ chuyển giao công nghệ và thu hút nguồn lực, góp phần trực tiếp nâng cao năng lực nội sinh và vị thế quốc gia.

________________________

Theo dõi CT Group trên Facebook để cập nhật thêm thông tin và tin tức mới nhất!

TIN TỨC LIÊN QUAN